Secondary Menu
tin-tuyen-sinh
Breaking news

Tư vấn online

tin-hoc-bong

Must Read

tin-hoi-thao

Hội thảo

[tin-hoi-thao][bsummary]

Học bổng

[tin-hoc-bong][bsummary]

Thông tin trường

[cac-truong-dai-hoc][bsummary]

Vì sao du học sinh không muốn về nước?

Tình trạng học trò Việt Nam ngày một muốn ra nước ngoài học tập, và khi học xong rồi, khá đông du học trò ngại ngần không muốn về làm việc tại quê hương.

 ThS. Đoàn Kim Thành (Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM): 

Thực tại cho thấy có một số căn nguyên của việc chảy máu chất xám là do những người có trình độ không có môi trường để phát huy. Một cán bộ trẻ, có năng lực trình độ tốt cũng rất ít khi được xếp đặt vào vị trí quản lý trong cơ quan nhà nước bởi một lý do rất đơn giản và thuyết phục là còn thiếu kinh nghiệm.

Nghịch lý ở chỗ là kinh nghiệm chỉ có khi làm và được làm, nếu không mạnh bạo giao việc cho làm thì sẽ không có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, trí thức trẻ thường hay đưa ra những sáng kiến có thể quá khác biệt hoặc táo tợn, điều đó thỉnh thoảng không tương hợp với hệ thống đã định hình sẵn, điều này cũng mang một nguyên tố khách quan vì trong tổ chức cơ quan quốc gia đã có sự phân cấp, phân quyền và các cơ chế chính sách buộc ràng, một ý tưởng dù có hay thì cũng phải nằm trong phạm vi của tổ chức.

Một lý do khác cũng rất thiết thực mà khiến cho nhiều trí thức trẻ rời bỏ khu vực nhà nước là thu nhập chưa cân xứng. Khi cuộc sống hàng ngày vẫn cần phải có cơm áo, gạo tiền thì một mức thu nhập quá thấp sẽ khó mà giữ chân được những người có thể độ những thời cơ nơi khác có mức thu nhập cao hơn.

 TS Nguyễn Hà Hữu - Đại học Thành Đô: 

Không ít nghiên cứu sinh sau khi trở về nước đã buộc phải tạm dừng hoặc tự hoạt động nghiên cứu khoa học vì môi trường nghiên cứu không có, cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn phòng thể nghiệm, thư viện… Đặc biệt, những vấn đề của đời sống vật chất đã khiến họ phải lao vào mưu sinh mà bỏ rơi tâm huyết nghiên cứu.

Khi nói đến vấn đề “chảy máu chất xám”, không phải chỉ vì những lưu học trò rời bỏ giang san, tìm đến những quốc gia phát triển, mà còn vì nguồn chất xám chất lượng cao không được phục vụ cho các đích phát triển khoa học, công nghệ.

Chưa nói đến vấn đề là ở lại các nước khoa học kỹ thuật phát triển thì các lưu học trò có thể nhận được lương cao chí ít là gấp 10 lần với đồng lương còi cọc mà họ nhận được ở Việt Nam và họ có thể làm việc như những nhà khoa học thực thụ, không phải lo lắng bon chen với những điều nhỏ mọn của đời thường. Cơ chế xin - cho trong nghiên cứu khoa học vẫn là những cái hố sâu, rộng để ngăn trở những ai muốn đi theo con đường khoa học đích thực.

Vấn đề ở lại hay về sau khi ra trường phụ thuộc vào suy nghĩ và ý kiến riêng của mỗi du học sinh. Khi nền kinh tế của đất nước càng phát triển thì càng thu hút được đông đảo du học trò trở về làm việc. Nhưng có một điểm chung trong nghĩ suy của du học trò là nơi nào lương cao và môi trường làm việc tốt thì họ sẽ chọn lựa để đóng góp.

Trộm nghĩ cần có thêm những chế độ ưu đãi đối với du học sinh quay về nước làm việc. Trong đó, những du học trò theo diện tự túc cũng là đối tượng đáng được quan tâm vì quốc gia không hề mất kinh phí đào tạo nhưng lại thu về được một nguồn tiềm năng con người đầy hẹn. Một khi du học trò có được chế độ đãi ngộ xứng đáng thì việc “ra đi là để trở về” cũng sẽ là điều tất yếu.

 Chị Nguyễn Thanh Hoài, nghiên cứu sinh tại Montreal (Canada): 

Tôi đang học bậc tấn sĩ và nhận thấy nền giáo dục của mình khác thế giới nhiều quá. Đidu học Canada, vấn đề khó khăn lớn nhất là dị đồng ngôn ngữ, nhưng không chỉ có thế, kiến thức mà chúng tôi được học không đủ đáp ứng với những đòi hỏi của thế giới.

Nhiều khi các kiến thức căn bản đã được học rồi nhưng khi đụng đến lại không nhớ, phải chăng do chúng ta học gạo? Tôi vẫn còn nhớ nhiều giờ trong trường đại học, thầy giảng, trò chép, khi thi thì phải học thuộc để làm bài hoặc đáp vấn đáp. Vượt qua mỗi kỳ thi như vậy nhẹ cả người rồi thì tri thức cứ theo nhau rơi rụng dần.

Tôi rất thích cách học của phương tây, họ không bắt ta học trêu nhiều (không nhiều nhưng có một số thứ đương nhiên phải nhớ), mà khuyến khích cách tư duy, phải nghĩ để đưa ra ý kiến riêng của mình. Có rất nhiều câu hỏi “Tại sao...&Rdquo;, “Bạn nghĩ như thế nào...&Rdquo; mà các giáo sư đặt ra trong mỗi kỳ thi chứ các câu hỏi về định nghĩa hay khái niệm rất ít thấy.

Thực tại giáo dục của Việt Nam cho thấy, chúng ta đang quá nghiêm khắc với trẻ em, nhồi nhét các em quá nhiều tri thức từ bậc tiểu học đến THPT, nhưng khi vào đến ĐH, học lên thạc sĩ, tấn sĩ lại quá dễ dàng. Bởi vậy, không có gì sửng sốt khi ngày một có nhiều gia đình ở Việt Nam tìm cách để đưa con cái đi du học vì họ không muốn con em họ cứ mãi ì trệ với cách học và tư duy trong nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét